Trong C++ cũng vậy, chúng ta sẽ bắt gặp rất nhiều từ khóa, chính xác là 84 từ khóa (trong C++ 14) như bảng sau:
alignas **
alignof ** and and_eq asm auto bitand bitor bool * break case catch |
char
char16_t ** char32_t ** class compl const constexpr ** const_cast * continue decltype** default delete |
do
double dynamic_cast * else enum explicit * export * extern false * float for friend |
goto
if inline int long mutable * namespace * new noexcept ** not not_eq nullptr ** |
operator
or or_eq private protected public register reinterpret_cast * return short signed sizeof |
static
static_assert ** static_cast * struct switch template this thread_local ** throw true * try typedef |
typeid *
typename * union unsigned using * virtual void volatile wchar_t * while xor xor_eq |
Chú thích:
* -- Những từ khóa có dấu * được thêm trong C++ 98, một số sách hay tài liệu có thể bỏ sót chúng.
** -- Những từ khóa có dấu ** được thêm trong C++ 11.
Có thể bạn đã bắt gặp một vài từ khóa trên trong các chương trình C++, phần còn lại bạn đừng lo lắng, chúng ta sẽ bắt gặp nó trong các bài sau.
Identifier naming rules
Tên của các biến, function, các object trong C++ được gọi là identifier. Và identifier trong C++ có một số luật như sau:
- Identifier không được trùng tên với keyword, đây là điều bắt buộc.
- Identifier chỉ được phép chứa ký tự (cả in hoa và viết thường), số và dấu gạch dưới.
- Identifier chỉ được phép bắt đầu bằng ký tự hoặc dấu gạch dưới, không được bắt đầu bằng số.
- C++ phân biệt ký tự viết hoa và viết thường, ví dụ Thanh và thanh là 2 biến khác nhau hoàn toàn.
Một trong những thách thức lớn nhất của các lập trình viên là làm thế nào để sử dụng function một cách hiểu quả. Và sau đây là một vài hướng dẫn dành cho bạn:
- Những đoạn code được lặp lại trên một lần mà thực hiện chức năng giống nhau nên được viết thành một function.
- Những đoạn code phức tạp, giải thuật hay thực hiện chức năng riêng biệt nào đó, nên viết thành function cho dù nó chỉ được gọi một lần. Ví dụ bạn một sort (sắp xếp) một mảng, bạn nên viết một function để sắp xếp mảng với input là mảng chưa được sắp xếp, output là mảng đã sắp xếp.
- Một function chỉ nên biểu diễn một chức năng riêng biệt.
- Khi bạn viết một function mà đã quá dài, quá khó để hiểu, khó để bảo trình, bạn nên chia function này thành các function nhỏ hơn (subfunction). Việc này gọi là refactoring (tái cấu trúc).
Một vài newbie thường hay gộp việc tính toán và xuất output thành một function, việc này vi phạm quy tắc ở trên. Bạn nên viết function tính toán và trả về giá trị, và sau đó bạn có thể xuất giá trị này ra ở bên ngoài tùy ý, hoặc bạn có thể tạo luôn một function dùng để xuất giá trị ra ngoài.
Kết thúc!
Không có nhận xét nào